MỚI NHẤT
CƠ QUAN CỦA TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Ảnh minh hoạ: Hải Nguyễn

VCCI kiến nghị về giới hạn sở hữu và sử dụng vốn vay ngân hàng

Minh Ánh LDO | 04/08/2023 20:17

Liên quan đến Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) - sau khi tham vấn doanh nghiệp và chuyên gia, góp ý 3 vấn đề chính liên quan đến giới hạn tỷ lệ sở hữu ngân hàng; hạn chế thành viên hội đồng quản trị và vấn đề sử dụng vốn vay đúng mục đích.

Quy định chặt chẽ về điều kiện và thủ tục cấp tín dụng để chặn sở hữu chéo

Liên quan đến vấn đề giới hạn tỷ lệ sở hữu trong Dự thảo, tại Điều 54 của Dự thảo đề xuất giảm tỷ lệ sở hữu tối đa tại một tổ chức tín dụng so với quy định hiện hành. Theo đó, tỷ lệ sở hữu tối đa của cá nhân giảm từ 5% xuống 3%, của tổ chức giảm từ 15% xuống 10% và của nhóm cổ đông có liên quan giảm từ 20% xuống 15%.

Được biết, sự thay đổi này cùng với việc mở rộng khái niệm người có liên quan, được suy đoán là nhằm chống lại tình trạng sở hữu chéo, tăng tính đại chúng trong sở hữu các tổ chức tín dụng, từ đó cải thiện tính minh bạch, giảm xung đột lợi ích khi cấp tín dụng và tăng tính an toàn cho các ngân hàng.

VCCI cho rằng, mục tiêu tăng tính an toàn cho hệ thống ngân hàng là cần thiết, song biện pháp tiếp tục giảm tỷ lệ sở hữu tối đa dường như không phải là giải pháp phù hợp vào thời điểm này.

Tại Việt Nam, tỷ lệ sở hữu tối đa ở các mức 5%, 15% và 20% như tại Việt Nam hiện nay đã tương đối thấp so với nhiều quốc gia trên thế giới. Mặc dù vậy, tình trạng cấp tín dụng tập trung cho một nhóm khách hàng có liên quan vẫn thường xuyên diễn ra, làm tăng rủi ro của hệ thống. Như vậy, dường như quy định về tỷ lệ sở hữu tối đa đã không thực sự phát huy tác dụng, các cổ đông dù không rơi vào trường hợp người có liên quan theo định nghĩa của luật, vẫn có liên kết chặt chẽ với nhau để đồng thuận cấp tín dụng rất tập trung. Kết luận của Thanh tra Chính phủ đầu tháng 7.2023 cho thấy tình trạng cấp tín dụng tập trung vẫn diễn ra tại một số ngân hàng.

VCCI đánh giá, tỷ lệ sở hữu của một số cổ đông cao không phải là vấn đề trực tiếp gây mất an toàn hệ thống ngân hàng. Tỷ lệ sở hữu cao dễ dẫn đến xung đột lợi ích, khiến hoạt động cấp tín dụng thường được điều hướng vào cho các khách hàng có liên quan đến cổ đông lớn mà không dựa trên các nguyên tắc và chuẩn mực phù hợp, từ đó mới gây mất an toàn cho ngân hàng.

Trong khi đó, tỷ lệ sở hữu tối đa quá thấp cũng không thực sự tốt cho việc quản trị ngân hàng. Khi sở hữu tỷ lệ vốn quá thấp, các cổ đông sẽ không thực sự gắn bó với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Các cổ đông lớn thường không chỉ đầu tư tiền bạc mà còn mang theo cả công nghệ, quy trình quản trị vào các ngân hàng, giúp các ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn.

Thêm vào đó, việc thay đổi pháp luật theo hướng giảm tỷ lệ sở hữu sẽ khiến một số cổ đông hiện hữu phải bán lại cổ phần của họ. Điều 198.8 quy định chuyển tiếp của Dự thảo cũng yêu cầu các cổ đông hiện hữu phải có phương án và lộ trình giảm tỷ lệ sở hữu theo Điều 54 phù hợp với hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước. Điều này không bảo đảm nguyên tắc bảo vệ quyền tài sản theo Hiến pháp.

Với những lý do trên, cơ quan này đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc sửa đổi quy định theo hướng thay vì giảm tỷ lệ sở hữu, đề nghị quy định chặt chẽ hơn về điều kiện và thủ tục cấp tín dụng cho khách hàng liên quan với cổ đông sở hữu từ 3% trở lên đối với cá nhân, 5% đối với tổ chức và 10% đối với nhóm cổ đông.

Trong trường hợp vẫn quy định giảm tỷ lệ sở hữu thì không nên áp dụng hồi tố đối với các trường hợp đã sở hữu trước ngày luật này có hiệu lực..

Thận trọng việc hạn chế thành viên hội đồng quản trị

Điều 34.2 của Dự thảo có quy định hạn chế thành viên hội đồng quản trị của tổ chức tín dụng không đồng thời là người quản lý, điều hành doanh nghiệp khác. Quy định này được suy đoán là nhằm tránh xung đột lợi ích khi thành viên hội đồng quản trị có thể gây ảnh hưởng đến các quyết định của ngân hàng nhằm có lợi cho doanh nghiệp khác của mình.

Tuy nhiên, VCCI nhận định, quy định này cần được cân nhắc một cách thận trọng hơn vì có thể sẽ gây nhiều vướng mắc trên thực tế.

Tham gia hội đồng quản trị của tổ chức tín dụng không phải là một công việc toàn thời gian, nên những người này thường có công việc khác. Việc hạn chế điều kiện thành viên hội đồng quản trị như Dự thảo có thể dẫn đến việc khó tìm được người đủ năng lực, kinh nghiệm, kiến thức để tham gia hội đồng quản trị, đặc biệt đối với thành viên độc lập.

VCCI cho rằng, mấu chốt vấn đề nằm ở việc kiểm soát các giao dịch, nhất là giao dịch cho vay của tổ chức tín dụng đối với các doanh nghiệp khác mà thành viên hội đồng quản trị kiêm nhiệm quản lý, điều hành. Do đó, biện pháp phù hợp hơn là quy định chặt chẽ về điều kiện và thủ tục cấp tín dụng đối với các doanh nghiệp mà thành viên hội đồng quản trị có lợi ích liên quan.

Ngoài ra, cơ quan này kiến nghị cần cân nhắc Điều 92.4 của Dự thảo. Tại đó quy định khách hàng có trách nhiệm sử dụng vốn vay đúng mục đích đã cam kết. Việc sử dụng vốn vay đúng mục đích đã cam kết là nghĩa vụ dân sự của khách hàng đối với tổ chức tín dụng.

Tuy nhiên, quy định này dễ dẫn đến việc hình sự hoá quan hệ dân sự kinh tế khi có ý kiến cho rằng việc sử dụng vốn vay không đúng mục đích là yếu tố cấu thành các tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo làm rõ quy định này theo hướng: Khách hàng có nghĩa vụ sử dụng vốn vay đúng cam kết với ngân hàng. Khách hàng có quyền thay đổi mục đích sử dụng vốn nếu được ngân hàng đồng ý hoặc ngân hàng biết mà không phản đối trong một khoảng thời gian hợp lý.

Tin mới nhất

Gợi ý dành cho bạn