MỚI NHẤT
CƠ QUAN CỦA TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Hệ thống máy tính Whirlwind I. Ảnh chụp màn hình

Những hệ thống máy tính thay đổi lịch sử nhân loại

Anh Vũ LDO | 07/12/2021 16:46

Các hệ thống máy tính đã phát triển từ kích thước hàng trăm tấn và rộng hàng trăm mét vuông tới những chiếc máy nhỏ gọn và trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của con người. 

Trước khi trở nên nhỏ gọn và tiện lợi, những hệ thống máy tính đã từng nặng tới hàng trăm tấn và không hề có màn hình. Dưới đây là danh sách 5 hệ thống máy tính khổng lồ đã gây tác động tới lịch sử của loài người theo xếp hạng của trang bestcomputerscienceschools.net.

5. Whirlwind I - 1951

Được phát triển từ năm 1948 đến năm 1951, hệ thống máy tính Whirlwind I được Phòng thí nghiệm MIT Servomechanisms xây dựng như một phần chương trình đào tạo của Hải quân Mỹ.

Mục đích là tạo ra một máy tính nhanh hơn nhiều so với các máy tính cùng thời và có khả năng chạy trên một loạt dữ liệu đầu vào thay đổi liên tục để tạo ra mô phỏng các chuyến bay phức tạp. Điều này dẫn đến sự phát triển của chế độ song song bit vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay và chứng minh rằng khả năng giám sát thời gian thực là có thể được thực hiện. 

Hệ thống máy tính Whirlwind I. Ảnh chụp màn hình

Sau đó, Whirlwind II được sử dụng trong chương trình phòng không SAGE của Không quân Mỹ. Công nghệ để phát triển Whirlwind I cũng là công cụ cho nhiều máy tính vào những năm 1960.

4. Máy tính Colossus - 1943

Colossus là máy tính kỹ thuật số điện tử có thể lập trình đầu tiên trên thế giới. Năm 1943, phiên bản gốc của cỗ máy này được một nhóm kỹ sư người Anh chế tạo dưới sự chỉ đạo của Tiến sĩ Tommy Flowers tại London.

Máy tính Colossus đã được sử dụng cho các nhiệm vụ đặc biệt của các nhà phá mã của Đồng minh trong Thế chiến thứ hai, đó là lý do tại sao cỗ máy này được giữ kín trong nhiều năm - ngay cả sau Thế chiến thứ hai.

Hệ thống máy tính Colossus phát triển năm 1943 tại London. Ảnh chụp màn hình

Tuy nhiên, những người làm việc trên Colossus đã có tác động rất lớn đến lĩnh vực máy tính. Alan Turing, Max Newman và I.J. Good, những người đã từng trực tiếp làm việc với Colossus, đã tiếp tục truyền tải kiến ​​thức chuyên môn của mình cho các hệ thống máy tính và sự phát triển phần mềm quan trọng khác sau khi hệ thống Colossus đầu tiên bị tháo dỡ.

3. Máy tính và tích hợp số điện tử (ENIAC) - 1946

ENIAC là một trong những máy tính có ảnh hưởng nhất trong lịch sử. Tiến sĩ vật lý John Mauchly và kỹ sư điện J. Presper Eckert - bộ đôi đứng sau UNIVAC - đã làm việc với một nhóm tại Trường Kỹ thuật Điện Moore thuộc Đại học Pennsylvania để phát triển nó.

Máy tính được công bố vào năm 1946 và được giới truyền thông ca ngợi là “bộ não khổng lồ”. Nó không chỉ có thể giải các phương trình toán học mà còn có thể lập trình để khởi động từ boot.

Hệ thống máy tính và tích hợp số điện tử (ENIAC) - 1946. Ảnh: Đại học Pennsylvania

Máy được phát triển để tính toán các quy trình bắn của pháo và nó có thể tính toán quỹ đạo bắn liên tục 60 giây trong nửa phút - trong khi máy phân tích vi sai của Bush mất tới 1/4 giờ để thực hiện thao tác tương tự.

Hơn thế nữa, hệ thống này nặng tới hơn 30 tấn và bao phủ hơn 16 mét vuông diện tích sàn, ENIAC chắc chắn là một trong những hệ thống máy tính lớn nhất thế giới.

2. Z1 - 1938

Konrad Zuse đã mất vài năm để thiết kế và chế tạo chiếc máy tính Z1 trong căn hộ của bố mẹ mình. Ông bắt đầu thiết kế chiếc máy này vào năm 1935 và hoàn thành việc chế tạo nó vào năm 1938. Mặc dù nó chỉ là một trong số nhiều mẫu máy đầu tiên, nhưng nó đã dẫn đến một số phát triển quan trọng.

Hệ thống máy tính Z1 phát triển năm 1938. Ảnh: Bảo tàng công nghệ Đức

Mỗi lần Zuse tạo ra một mô hình mới, ông lại cải tiến mô hình cũ - và vào năm 1941, ông đã tạo ra Z3, một máy tính đầy đủ chức năng có dung lượng bộ nhớ khổng lồ, các rơ le chạy theo nguyên tắc nhị phân số học. Nó có thể lập trình được và chứa gần như tất cả các yếu tố cơ bản của các máy tính sau này. Tiếp nối Z3, Zuse đã bán được khoảng 300 chiếc Z4 của mình.

1. IBM AN/FSQ-7 - 1958

AN/FSQ-7 của IBM là máy tính lớn nhất từng được chế tạo và dự kiến ​​sẽ vẫn như vậy. Hệ thống khổng lồ này sử dụng hai máy tính Whirlwind thế hệ thứ hai và nặng tới 250 tấn. Đến năm 1955, một nguyên mẫu AN/FSQ-7 đã được lắp đặt trong khu vực thử nghiệm Môi trường Mặt đất Bán tự động (SAGE) của Không quân Mỹ ở Lexington, Massachusetts. Mỗi hệ thống AN/FSQ-7 bao gồm 24 máy và được cung cấp cho hơn 100 người dùng.

Hệ thống IBM AN/FSQ-7 năm 1958. Ảnh: IBM

Trong chiến tranh lạnh, hệ thống này được sử dụng để theo dõi các máy bay ném bom của đối phương và dự đoán các điểm đánh chặn. Thuật toán của nó có thể phóng tên lửa Bomarc và dẫn đường cho nó cho đến khi cơ chế điều khiển của tên lửa có hiệu lực. AN/FSQ-7 là một thiết kế ban đầu tuyệt vời cho các hệ thống kiểm soát không lưu với giao diện thời gian thực (CRT) đầu tiên.

Tin mới nhất

Gợi ý dành cho bạn