MỚI NHẤT
CƠ QUAN CỦA TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM

Đồng chí Lê Đức Thọ - người từ chối Giải Nobel Hòa bình

Thái Bình LDO | 10/10/2021 22:32
Khi được Ủy ban Nobel chọn trao Giải Nobel Hòa bình năm 1973 (cùng với Kissinger), đồng chí Lê Đức Thọ đã không nhận, vì cho rằng hòa bình vẫn chưa lập lại trên đất nước Việt Nam.

Trong đàm phán Paris, những cuộc gặp riêng giữa ông Lê Đức Thọ - cố vấn phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) và ông Henry Kissinger - cố vấn phái đoàn Mỹ giữ vai trò quyết định then chốt. Những lần gặp gỡ này là những cuộc đối đầu lịch sử gay cấn, thú vị, với nhiều giai thoại đặc sắc trước khi các bên đặt bút ký vào biên bản hiệp định.

Ông Hà Đăng, người phát ngôn của Đoàn đại biểu Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris, kể trong một buổi họp riêng với Kissinger, Cố vấn Lê Đức Thọ đã nói: “Tôi biết là các ông gần đây cũng chạy vạy rất nhiều chỗ này chỗ khác để tìm ra một giải pháp. Nhưng mà các ông nên hiểu, đây là vấn đề của Việt Nam diễn ra trên đất nước Việt Nam thì chỉ có tại bàn thương lượng này, chúng ta mới có thể tìm ra được giải pháp chứ không phải chạy đi chỗ này chỗ khác. Và nếu ông còn đi theo con đường đó thì các ông còn thất bại”.

Lê Đức Thọ và Kissinger thường tranh cãi tay đôi để bảo vệ lập trường, quan điểm của mỗi bên. Với những nhân chứng từng tham gia đàm phán, đồng chí Lê Đức Thọ là một nhà chiến lược tài ba, sắc sảo và rất quyết liệt, kiên trì trong việc bảo vệ lập trường của ta. Thêm vào đó, chính nghĩa thuộc về cuộc kháng chiến của quân dân ta nên Mỹ và Kissinger dù dùng nhiều thủ đoạn quân sự và ngoại giao khác nhau cũng không thể giành được “hòa bình trong danh dự” như họ mong đợi.

Từ những đóng góp quan trọng trong việc thúc đẩy ký kết Hiệp định Paris 1973, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, ông Lê Đức Thọ được Ủy ban Nobel chọn trao giải thưởng Nobel Hòa bình cùng với Henry Kissinger. Nhưng đồng chí Lê Đức Thọ đã từ chối, vì cho rằng: “Hòa bình chưa thực sự lập lại trên đất nước Việt Nam” và rằng: “Người xứng đáng (nhận giải thưởng Nobel Hòa bình) chính là nhân dân Việt Nam”.

Ngay trước ngày ký kết Hiệp định Paris, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã bắt đầu âm mưu phá hoại hiệp định, cắm cờ giành đất, gây nhiều tổn thất cho ta. Trên thực tế, Hiệp định Paris khi có hiệu lực chỉ được thi hành nghiêm chỉnh ở những điều khoản rút quân Mỹ và lực lượng chư hầu, trao trả tù binh Mỹ mà thôi.

Chiều 29.3.1973, tại sân bay Gia Lâm, Hà Nội, ta đã trao trả cho phía Hoa Kỳ những phi công Mỹ cuối cùng bị bắt trong cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ đối với miền Bắc. Hãng AFP đưa tin: “Trong suốt cả ngày và đêm 28.3, các máy bay vận tải bay đi, bay về giữa hai sân bay Clác và Tân Sơn Nhất để chở các lính Mỹ rút đi... Hôm nay, 29.3.1973, những lính Mỹ cuối cùng đã rời Nam Việt Nam hồi 17 giờ 30 phút giờ Sài Gòn. Người Mỹ cuối cùng rời khỏi Nam Việt Nam là đại tá không quân Đê-vít Ô-đen”.

Sau khi quân đội Hoa Kỳ rút hết vào cuối tháng 3.1973, Nguyễn Văn Thiệu và chính quyền Sài Gòn lại tiếp tục ra sức phá hoại hiệp định, hành quân lấn đất chiếm dân trong chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ” trên toàn miền Nam. Trước tình hình đó, quân dân ta tiếp tục bước vào giai đoạn chiến đấu mới một cách không khoan nhượng. Vai trò của Hiệp định Paris, trên thực tế đã kết thúc.

Nhưng điều quan trọng nhất mà hiệp định đã thực hiện được là “quân Mỹ phải ra còn quân ta thì ở lại”. Mỹ đã một đi không thể trở lại, tạo điều kiện để quân và dân ta tiến lên giành thắng lợi cuối cùng vào ngày 30.4.1975, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân lịch sử trên toàn chiến trường miền Nam. Đất nước Việt Nam cuối cùng đã được thống nhất, non sông đã thu về một mối sau 21 năm trường kỳ kháng chiến, hy sinh, gian khổ.

Tin mới nhất

Gợi ý dành cho bạn