MỚI NHẤT
CƠ QUAN CỦA TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM

Thế nào là người mất tích và xử lý việc liên quan người mất tích ra sao?

Nam Dương LDO | 21/02/2024 11:09

Thời gian gần đây, một số trường hợp được cho là mất tích và gia đình, thân nhân của những người đó đã sớm tuyên bố là người mất tích. Câu hỏi đặt ra, theo quy định của pháp luật, thế nào mới được coi là người mất tích và xử lý những vấn đề liên quan đến người mất tích như thế nào?

Luật sư Trần Phi Đại - Đoàn Luật sư TPHCM - cho biết, Điều 68 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định, khi một người biệt tích 2 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.

Luật sư Đại giải thích thêm, theo quy định của pháp luật, thời hạn 2 năm nói trên được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó. Nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.

Như vậy, điều kiện tiên quyết của việc một người được xem là mất tích là một người phải biệt tích từ 2 năm liền trở lên và đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết. Đồng thời, việc tuyên bố mất tích này thuộc thẩm quyền của tòa án theo quy trình tố tụng dân sự theo luật định. Quyết định của tòa án tuyên bố một người mất tích phải được gửi cho UBND cấp xã nơi cư trú cuối cùng của người bị tuyên bố mất tích để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.

Trường hợp người mất tích đã có vợ hoặc chồng và muốn li hôn, thì vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin li hôn và tòa án giải quyết cho li hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.

Việc quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích được tuân thủ theo quy định tại Điều 69 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015. Theo đó, người đang quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú quy định tại Điều 65 của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 tiếp tục quản lý tài sản của người đó khi người đó bị tòa án tuyên bố mất tích và có các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 66 và Điều 67 của Bộ luật này.

Trường hợp tòa án giải quyết cho vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích li hôn thì tài sản của người mất tích được giao cho con thành niên hoặc cha, mẹ của người mất tích quản lý. Nếu không có những người này thì giao cho người thân thích của người mất tích quản lý; nếu không có người thân thích thì tòa án chỉ định người khác quản lý tài sản.

Luật sư Đại cho biết thêm, theo quy định tại Điều 70 Bộ luật Dân sự 2015, khi người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích đối với người đó.

Người bị tuyên bố mất tích trở về được nhận lại tài sản do người quản lý tài sản chuyển giao sau khi đã thanh toán chi phí quản lý. Quyết định của tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích phải được gửi cho UBND cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố mất tích để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.

Tin mới nhất

Gợi ý dành cho bạn