MỚI NHẤT
CƠ QUAN CỦA TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
“Chơi bài”, ngày xưa chỉ với mục đích giải trí, vui xuân chứ không phải "ăn thua" như nhiều sới bạc ngày nay. Ảnh: Quốc Sỹ

Thú chơi xuân xứ Huế

Phúc Đạt - Anh Tuấn - Minh Khiêm LDO | 13/02/2024 06:00

Dựa vào nông lịch Á Đông và theo tính toán chu kỳ tuần hoàn của mặt trăng (âm lịch), một năm có nhiều ngày Tết, nhưng cái Tết quan trọng nhất, lớn lao nhất là Tết Nguyên Đán - Tết Cả. Tết ở xứ Huế luôn đặc sắc với nhiều trò chơi dân gian thú vị.

Đu tiên làng Phước Yên - “người thì lên đánh, kẻ ngồi trông”

Làng Phước Yên thành lập giữa thế kỉ XVII, sau khi chúa Nguyễn Phúc Lan dời phủ chính từ đấy vào Kim Long (1636). Cư dân chủ yếu thuộc hậu duệ những người trong đạo quân Trung Nghĩa của Nguyễn Hoàng, mang theo trò đu tiên ngày xuân từ Bắc vào. Nửa sau thế kỉ XVII, chúa Nguyễn Phúc Tần cũng có lần mở hội vui sau cuộc chiến cuối cùng với chúa Trịnh thắng lợi.

Nguyễn Khoa Chiêm kể lại: “Lại nói năm Nhâm Tí, niên hiệu Chính Trị thứ mười (1672), tháng Hai, Hiền vương Nguyễn Phúc Tần nhân lúc nhàn hạ, cho gọi con trai con gái làng Hạ Lang đến trước gác Quyển Bồng chia nhau làm trò vui như đánh cờ người, đánh quả cầu, đánh đu tiên, đáng kể là ngày hội lớn. Bấy giờ, các quan võ, dân chúng già trẻ, gái trai bồng con bế cháu cùng đi, người trẩy hội đông không kể xiết”...

Lễ hội Đu tiên tại xã Điền Hòa (Phong Điền). Ảnh: Phúc Đạt

Từ đó đến giữa thế kỉ XIX, trò đu tiên rất thịnh hành, nhiều làng xóm và ngay ở nhiều địa điểm vùng Kinh đô Huế, trò đu tiên vẫn hấp dẫn trai thanh gái lịch đáng kể nhất.

Hằng năm, cứ cuối tháng Chạp, người ta dựng một giàn tre (làm sẵn) ở khoảng đất trống, ngã tư giữa chùa và đình, nhưng không ai được đụng chạm. Sớm mồng Một Tết, sau khi lên nêu và làm lễ năm mới xong, mọi người tụ tập lại, thay nhau chơi, “người thì lên đánh kẻ ngồi trông”, cùng hò reo cổ vũ, cho tới ngày hạ nêu mồng bảy mới dỡ cất... Về sau, trò đu tiên không còn thịnh hành như trước nữa, hiện tại một số địa phương vẫn còn gìn giữ được trò này, như làng Phước Yên (xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền), xã Điền Hòa (huyện Phong Điền)...

Hội vật làng Sình

Ngày nay, xứ Huế có những làng vẫn còn duy trì hội vật võ đầu xuân, như làng Lại Ân (tên Nôm là Sình, xã Phú Mậu, TP Huế) và làng Thủ Lễ. Có lẽ ngày xưa, hội này phổ biến hơn, phát sinh từ tinh thần thượng võ của dân tộc, đặc biệt do yêu cầu toàn dân rèn luyện sức khỏe để chuẩn bị cho lực lượng quân đội của các chúa Nguyễn xứ Đàng Trong. Phần nhiều người ta cho rằng trò vật võ xuất xứ từ hội vua của chúa Nguyễn Phúc Tần hồi cuối thế kỉ XVII.

Hội vật làng Sình thu hút rất đông khán giả đến xem. Ảnh: P.Đ

Xưa kia, các làng đều tổ chức hội vật, không chỉ vì phủ Chúa, mà chủ yếu để khuyến khích con em rèn luyện sức khỏe phục vụ lao động sản xuất nông nghiệp, cho nên các chức sắc, hương lão đưa vào làm lễ hội hằng năm, nhưng không đặt nặng mục đích “ăn thua”, mà chủ yếu góp vui và tế thần (tín ngưỡng), nổi tiếng nhất là hội vật làng Sình, đúng với câu thơ lục bát để nhắc nhở con cháu quê hương mình rằng: “Dù ai đi đó đi đây/Đến ngày hội vật nhớ quay về Sình”. Đây cũng là dịp kỳ an đầu xuân. Trước một ngày, từ buổi sáng, làng phân công đinh tráng sửa soạn sới vật; chiều, quan viên chức sắc làm lễ túc yết tại đình.

Tờ mờ sáng hôm sau (mồng 10 tháng Giêng) chuông trống gióng lên, lễ chánh tế được cử hành trang nghiêm nhưng gọn nhẹ. Tiếp đó, từng cặp trai tráng theo lứa tuồi lần lượt cùng nhau tỉ thí cho đến khi phân thắng bại, hết đôi này đến đôi khác…

Ngoài hội vật làng Sình, tại tỉnh Thừa Thiên Huế còn có Hội vật làng Thủ Lễ (thị trấn Sịa, huyện Quảng Điền) diễn ra vào ngày mồng 6 Tết Âm lịch hằng năm

Chơi bài chòi

Tết ngày xưa, trò phổ biến nhất là “chơi bài”, tất nhiên không phải là chơi bài với mục đích “ăn thua”, mà là với mục đích giải trí, mua vui, dù có “đậu” tiền, nhưng không nhiều. Dọc hai bên đường, rải rác có người làm cái đặt bàn xóc dĩa, chiếu bông vụ, tôm cua rùa cá..., trẻ con và ngay cả người lớn qua lại ghé chơi vài ván, “ăn thua” gì không kể, phủi tay đứng dậy vui vẻ đi tiếp. Trong các nhà thì phái đàn ông chơi tổ tôm (Làm trai biết đánh tổ tôm/Uống trà Mạn Hảo ngâm nôm Thúy Kiều), mạt chược, tài bàn, phái đàn bà chơi tứ sắc… Nhưng trò bài chòi mới thật là đặc điểm của ngày Tết xứ Đàng Trong nói chung và được duy trì cho đến đầu thế kỉ XX.

Ngày xưa, gần sát trước ngày Tết, nhà cái đã lo chuẩn bị “thầu” một chỗ đất trống ở nơi thuận tiện nhất, nghĩa là sẽ có đông người qua lại, vui chơi, dựng mười cái chòi nhỏ (nhà nổi trên bốn chân trụ) đối diện hai bên (mỗi chòi vừa đủ cho hai người ngồi thoải mái, treo sẵn một cái mõ tre hay mõ gỗ, hặc một cái kẻng), giữa sân làm một cái rạp (lợp mái mà không vách che xung quanh), đặt một bộ bàn ghế.

Sáng mồng một, khai trương. Nhà cái ngồi ở rạp, trên bàn đặt hai cái ống đựng một bộ bài chia làm hai phần giống nhau, mỗi con bài được dán trên một cái thẻ tre hay gỗ có chân cắm; mười nhà con “đậu” tiền theo quy ước (mỗi người bao nhiêu tùy nhà cái và cũng tùy hoàn cảnh từng nơi) rồi lần lượt chọn chòi lên ngồi. Có mười người chơi “đậu” tiền, cũng có thể con, em, bạn bè “ăn theo” lên chòi ngồi “mua vui”.

Ai nấy yên vị xong, nhà cái đem ống chứa nửa bộ bài đi phát các chòi, mỗi chòi rút “may rủi” ba thẻ. Kế, đến lượt nhà chuyên (người có nghề hô bài chòi “chuyên nghiệp”) rút thẻ bài đầu tiên từ ống đặt trên bàn rạp (gọi là ống bài nọc), đó là thẻ bài “đi chợ”, xướng to lên cho mọi người đều nghe, nhưng không phải đọc đúng tên con bài mà là một câu thơ có ý nghĩa để nhà con suy ra, như câu: “Đi đâu mang sách đi hoài / Cử nhân không đậu, tú tài cũng không”, chẳng đỗ đạt gì mà cứ mang sách đi thì là con “Trò” chứ gì, rồi e có người đoán không ra, nhà chuyên hô tiếp: “Là con Trò!”...

Mười chòi nhưng chỉ chín ván, vì một ván “bỏ xâu” dành cho nhà cái. Xong một hội, ai chưa chán thì ngồi lại chơi tiếp, đậu hội khác; ai đã chán hay có việc khác thì cứ tự nhiên rời chòi, sẽ có người mới đến thay thế…

Niềm vui đầu xuân từ thú chơi bài chòi. Ảnh: Q.S

Trò chơi bài chòi với những quân bài giản dị nhưng bí ẩn đến nay đã đi vào hoài niệm, không ít người tưởng nhớ đến quá khứ thân thương, còn nhà nghiên cứu Trần Viết Điền trong bài Góp thêm một vài ý quanh bộ bài tới đăng trong Tạp chí Huế Xưa & Nay số 55 (2003)” có suy nghĩ: “Ngày xuân, nhìn những bộ bài tới, cứ nghĩ miên man về tổ tiên ngày xưa, từng sử dụng loại bài này, lại càng thấy bộ bài tới gần gũi thân thương lạ thường. Cái “thần khí” của bộ bài tới hoàn toàn khác xa với những bộ bài tứ sắc, bộ bài tú lơ khơ…

Ngày Tết, đưa cháu, con đi đến hội hoa xuân, hội vui xuân… bao nhiêu là trò chơi hiện đại, chúng tôi cứ cảm hoài về những tối đầu năm trong hương trầm mang “mùi Tết”, có “nhạc âm thân thương” của giọng cười nức nẻ của mẹ, của dì, của o, của chị… khi xướng những quân bài, khi “chực” bài và khi được tới. Hay nhớ về bãi đất trống đầu làng đang vào hội bài chòi, nhớ giọng hò lên bổng xuống trầm của ông “đề điệu” đang giới thiệu những quân bài tới… và xót xa khi thấy “màu dân tộc” đang phai dần trong dịp Tết cổ truyền”. Âu đó cũng là cái giá của sự văn minh tiến bộ vậy…

***

Ngày xuân, nhắc lại vài thú vui bổ ích, tao nhã của phong tục Tết cổ truyền xứ Huế cũng là cách “học xưa vì nay”, chứ đâu phải chỉ là chuyện “trà dư tửu hậu” mà thôi!

Tin mới nhất

Gợi ý dành cho bạn