MỚI NHẤT
CƠ QUAN CỦA TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Nghệ thuật Dân ca quan họ Bắc Ninh. Ảnh Hải Nguyễn

“Việt Nam không có Di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại” - phải chăng là nhầm lẫn?

Mai Châu - Hải Ngọc LDO | 22/12/2019 07:00
Theo cựu cán bộ chương trình cấp cao của UNESCO, “không có Di sản văn hóa phi vật thể của quốc gia hay của nhân loại” mà chỉ có Di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng tại một quốc gia nào đó. Nếu vậy, Hát Then, Ca Trù, Nhã nhạc cung đình Huế, Dân ca Quan họ Bắc Ninh hay Hát Xoan… không có tính “nhân loại” mà chỉ là di sản văn hóa phi vật thể của một cộng đồng ở Việt Nam. Trong khi đó Tổng Thư ký UNESCO tại Việt Nam lại khẳng định rằng không thể có sự nhầm lẫn trên.

“Nhầm lẫn về thuật ngữ”?

Tại hội thảo chuyên đề “Huy động truyền thông trong bảo tồn và phát huy Di sản Văn hóa phi vật thể” do Văn phòng UNESCO Hà Nội phối hợp với Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Viện Nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam tổ chức, Tiến sĩ Frank Proschan - cựu cán bộ Chương trình cao cấp của UNESCO cho rằng: Hiện nay thuật ngữ “Di sản văn hóa phi vật thể” thường được sử dụng rộng rãi bởi các phương tiện truyền thông đại chúng ở Việt Nam vẫn đang bị hiểu sai và có những thông tin chưa chính xác.

Tiến sĩ Frank Proschan cho biết, trong Công ước năm 2003 của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, Di sản văn hóa phi vật thể chỉ được sở hữu, công nhận bởi cộng đồng, nhóm cá nhân và một số trường hợp là các cá nhân. Như thế có nghĩa là “không có Di sản văn hóa phi vật thể của quốc gia hay của nhân loại” mà chỉ có Di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng tại một quốc gia nào đó.

Công ước 2003 cũng bác bỏ việc xếp hạng Di sản văn hóa phi vật thể nên không có khái niệm xếp hạng di sản theo cấp tỉnh, cấp quốc gia hay cấp thế giới (nhân loại).

Di sản thuộc về nhân loại?

Nếu như theo Công ước 2003, không có Di sản văn hóa phi vật thể của quốc gia hay của nhân loại mà chỉ có Di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng tại một quốc gia nào đó thì đồng nghĩa với việc Hát Then, Ca Trù, Nhã nhạc cung đình Huế, Dân ca Quan họ Bắc Ninh hay Hát Xoan… không phải là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại mà là di sản văn hóa phi vật thể của một cộng đồng ở Việt Nam.

Như vậy, từ trước đến nay, danh xưng “Di sản văn hóa phi vật thể” do UNESCO công nhận là một sự nhầm lẫn. Nói một cách dễ hiểu hơn, Di sản văn hóa không thuộc về thế giới, nhân loại mà thuộc về cộng đồng, nơi di sản đó được lưu giữ, thực hành.

Theo bà Phạm Thị Thanh Hường - Phụ trách chương trình Văn hóa, Văn phòng UNESCO tại Hà Nội, việc hiểu và chuyển tải sai về Di sản văn hóa phi vật thể theo tinh thần của Công ước 2003 đã tồn tại từ lâu. Các sai lệch bắt nguồn từ việc chuyển ngữ từ tiếng Anh, tiếng Pháp sang tiếng Việt. Do điều kiện hoạt động truyền thông của UNESCO còn hạn chế nên ngay cả thông tin về các phiên họp của UNESCO cũng chưa cập nhật kịp thời, liên tục được.

Di sản văn hóa phi vật thể có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống văn hóa của một quốc gia, đặc biệt là Việt Nam. Tuy nhiên, để hiểu đúng về Di sản văn hóa phi vật thể không phải điều dễ dàng. Có thể, nhận thức, quan điểm và truyền thông về các di sản văn hóa ở Việt Nam còn mơ hồ nên dẫn đến việc nhầm lẫn về thuật ngữ “Di sản văn hóa phi vật thể của thế giới, nhân loại”.

Mặc dù vậy, tại trang web của Cục di sản văn hóa, ở mục, di sản văn hóa phi vật thể, Cục này vẫn ghi danh sách các di sản văn hóa ghi rất rõ ràng: Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Vậy có sự khác biệt nào giữa khái niệm này với khái niệm “Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại” mà chúng ta đang dùng?

Sáng ngày 20.12, trao đổi với PV Lao Động, ông Mai Phan Dũng - Tổng Thư ký UNESCO tại Việt Nam vẫn cho rằng, quy trình được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể khá phức tạp, chặt chẽ và phải trải qua nhiều bước. Hiện tại, theo ông Dũng, trên thế giới có 50 quốc gia chưa có Di sản văn hóa phi vật thể nhân loại. Mỗi năm có 50 hồ sơ xin xét duyệt được gửi lên UNESCO, trong đó mỗi quốc gia chỉ được 1 hồ sơ. Trên thực tế, UNESCO từng trả hồ sơ nghệ thuật Hát Then của Việt Nam, dù hồ sơ đã qua rất nhiều vòng thẩm định, đánh giá bởi các chuyên gia.

Theo cách hiểu trước đây, Việt Nam đã có 12 Di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO công nhận là “Di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại (thế giới)”, bao gồm: Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Ca trù, Dân ca Quan họ Bắc Ninh, Đờn ca tài tử, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Hội Gióng, Hát xoan Phú Thọ, Ví giặm Nghệ Tĩnh, Nghệ thuật Bài chòi Trung Bộ, Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của Người Việt và Nghi lễ và trò chơi kéo co. Mới đây nhất, thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái tại Việt Nam tiếp tục được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Tin mới nhất

Gợi ý dành cho bạn