Gửi đến niềm hy vọng
Trên một tờ báo Đức năm 1967, đăng bài phỏng vấn Giáo sư Tiến sĩ Y khoa Heimfried-Christoph Nonnemann. Bài phỏng vấn lập tức gây sự chú ý trong dư luận thế giới lúc bấy giờ, vì nó miêu tả thực tế khủng khiếp những gì đang xảy ra trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam, với sự góp mặt tích cực của quân lực Hoa Kỳ, mà Christoph Nonnemann gián tiếp tham gia với tư cách Bác sĩ trưởng con tàu mang tên Helgoland do Hồng Thập tự Đức phái đến Sài Gòn, Đà Nẵng từ năm 1966.
Đó là những năm 60 của thế kỷ trước, khi cuộc chiến tranh chống Mỹ leo thang bằng hàng loạt nước đồng minh của Mỹ đưa quân tiếp chiến vào Miền Nam Việt Nam. Thay vì những đoàn quân viễn chinh, chính phủ Đức chỉ nhận trợ giúp về mặt nhân đạo. Hội Hồng Thập Tự Đức cùng các tổ chức thiện nguyện, trong đó có tổ chức Malteser Hilfsdienst khẩn cấp tìm một con tàu, hoán cải thành loại tàu y tế, để trợ giúp nạn nhân của cuộc chiến.
Và con tàu du lịch mang tên Helgoland, được đóng và hạ thủy vào năm 1963, từng dùng để vận chuyển khách du lịch hạng sang từ thành phố cảng Cuxhaven, miền Bắc nước Đức, đến quần đảo Helgoland được chọn. Tàu dài 92 mét, được hoán cải để chứa 150 giường điều trị, 3 phòng phẫu thuật. Tất cả được sắp xếp dọc thân và trang bị một phòng xét nghiệm y khoa với các y cụ hiện đại.
Đặc biệt, con tàu y tế Helgoland không nhận chữa trị cho binh lính của bất kỳ bên nào. Tuy vậy con số 75% bệnh nhân nam giới bị thương tích do bom đạn, gây ra sự "khó hiểu" cho chính quyền Cộng Hòa lúc bấy giờ và đầu năm 1967, Helgoland được khuyến cáo, rời Sài Gòn về Đà Nẵng. Tàu chính thức thả neo trên sông Hàn, trước cơ quan trạm tiếp sóng Truyền hình (bây giờ là Trung tâm truyền hình Việt Nam tại Đà Nẵng) trong sự mừng vui của người dân Đà Nẵng.
Chúng tôi không hỏi họ từ đâu đến
Sự có mặt của Helgoland tại Đà Nẵng dấy lên một niềm hy vọng mới. Lúc bấy giờ Thị trưởng Đà Nẵng là ông Nguyễn Ngọc Khôi đã huy động nhiều thành phần từ học sinh đến kiêu binh đến đón chào con tàu. Là có cái lý của nó vì bấy giờ Đà Nẵng, tuy là đô thị lớn thứ nhì Miền Nam, nhưng chỉ có một cơ sở y tế nghèo nàn được thành lập từ trước năm 1945, với tên ban đầu là Hospital de Danang. Cơ sở đặt tại đường Hùng Vương (nay là Trường Đại học Kỹ thuật Y tế). Mãi đến năm 1965, bệnh viện mới được chuyển về vị trí hiện nay với tên Hospital Indigène de Danang (BV Giải phẫu Đà Nẵng).
Tiến sĩ Heimfried-Christoph Nonnemann nhớ lại: Các bác sĩ và y tá đã không chuẩn bị trước tinh thần để đối mặt với những điều khủng khiếp đang chờ đợi họ. Lần đầu tiên điều trị cho những người dân bị thương do bom đạn, các nhân viên y tế CHLB Đức đã sốc. Một y tá nói: "Chúng tôi chỉ biết khóc". Các nhân viên y tế giúp đỡ tất cả mọi người dân mà không hề thắc mắc họ đến từ đâu. Ông nói: "Chúng tôi chưa bao giờ hỏi họ đến từ miền Bắc hay miền Nam Việt Nam". Từ quan điểm này, sau khi về Đức năm 1972, ông viết cuốn sách có tựa đề "Chúng tôi không hỏi họ từ đâu đến". Cuốn sách sau này được chuyển ngữ sang tiếng Việt, được coi là một tư liệu quý cho lịch sử chiến tranh Việt Nam. Helgoland được Công ước Geneve bảo hộ, nó được coi như "vùng đất phi chiến sự hoặc trung lập nghiêm ngặt". Nhờ "đặc quyền" này, tàu Helgoland tiếp nhận tất cả các bệnh nhân đưa, chuyển đến bằng nhiều phương tiện tại Đà Nẵng hoặc các vùng ven, không phân biệt tuổi tác, gốc tích xuất thân. Vì lẽ này chiếc tàu cũng gặp khá nhiều sự "khó khăn" từ phía chính quyền lúc bấy giờ.
Anh Nguyễn Văn Quý (55 tuổi) kể: Năm lên 7, cha tôi bị bắt giam ở Ty Gia Long, vì gia đình có "cảm tình với cộng sản". Mẹ một nách nuôi 6 người con "củ khoai, củ mì", ngày ngày phải nhận đồ trận của lính Mỹ về giặt ủi, không đủ thời gian để chăm sóc thấu đáo cho tất cả. Tôi tự do lêu lổng chạy chơi khắp thành phố và con tàu Helgoland là điểm tụ tập của trẻ con xứ Nại Hiên. Hiếm có ngày nào, tôi vắng mặt và luôn nhận những cái vẫy tay thân thiện hoặc đồ chơi từ những người áo trắng trên tàu. Không ngờ, có một ngày tôi lại được lên tàu, trên chiếc băng ca trong một đêm mưa, khi chiếc xe của người cảnh sát đâm thẳng vào do băng qua đường bất ngờ. Dù là con của một gia đình "tù chính trị" bị chính quyền kỳ thị, nhưng các y bác sĩ đã đón nhận ngay lập tức, đưa tôi vào phòng giải phẫu. Không có một sự khác biệt nào trong cách ứng xử, chăm sóc. Năm ngày trên tàu là chuỗi thời gian để lại ấn tượng sâu đậm của tình thương yêu con người, từ người lương y Đức trong tôi cho đến tận bây giờ.
Sứ mệnh của Helgoland kết thúc năm 1972, sau khi tổ chức Hồng Thập Tự cùng các tổ chức thiện nguyện Đức xây dựng và nâng cấp cho Đà Nẵng một bệnh viện hiện đại 1 ngàn giường. Con tàu yên ả trở lại với công năng cũ, tiếp tục làm phà chở du khách qua biển. Dù thời gian đã qua gần một đời người, nhưng hình ảnh con tàu y tế Đức vẫn thân thuộc và sống mãi trong ký ức người Đà Nẵng. Trong 6 năm thả neo ở Việt Nam, các y bác sĩ Hội Hồng Thập Tự và các tổ chức thiện nguyện Đức cùng Helgoland đã cứu sống, điều trị cho hơn 11.000 người dân Việt Nam. Người Đà Nẵng vẫn gọi nó với cái tên: "Con tàu màu trắng chở đầy hy vọng". Cho đến ngày nay, các thành viên cũ của đội tàu Helgoland vẫn tiếp tục sứ mạng, điều hành một tổ chức nhân đạo giúp đỡ trẻ em Việt Nam.