MỚI NHẤT
CƠ QUAN CỦA TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Không cho vượt xe, ôtô bị người điều khiển xe máy đấm bẹp capô. Ảnh: Nguyễn Hiền

Muốn vượt xe phải vượt bên trái và đảm bảo an toàn

Xuyên Đông LDO | 03/10/2023 11:23

Báo Lao Động vừa đăng tải thông tin: Không cho vượt, ôtô bị chủ xe SH chặn đường đấm bẹp capô ở Tây Hồ. Vậy vượt xe được quy định như thế nào trong luật?

Trao đổi với Báo Lao Động, luật sư Nguyễn Thu Trang, Văn phòng Luật sư Hưng Đạo Thăng Long cho biết, Điều 14 Luật Giao thông đường bộ 2008 quy định vượt xe như sau:

Xe xin vượt phải có báo hiệu bằng đèn hoặc còi; trong đô thị và khu đông dân cư từ 22 giờ đến 5 giờ chỉ được báo hiệu xin vượt bằng đèn.

Xe xin vượt chỉ được vượt khi không có chướng ngại vật phía trước, không có xe chạy ngược chiều trong đoạn đường định vượt, xe chạy trước không có tín hiệu vượt xe khác và đã tránh về bên phải.

Khi có xe xin vượt, nếu đủ điều kiện an toàn, người điều khiển phương tiện phía trước phải giảm tốc độ, đi sát về bên phải của phần đường xe chạy cho đến khi xe sau đã vượt qua, không được gây trở ngại đối với xe xin vượt.

Khi vượt, các xe phải vượt về bên trái, trừ các trường hợp sau đây thì được phép vượt bên phải:

Khi xe phía trước có tín hiệu rẽ trái hoặc đang rẽ trái;

Khi xe điện đang chạy giữa đường;

Khi xe chuyên dùng đang làm việc trên đường mà không thể vượt bên trái được.

Không được vượt xe khi có một trong các trường hợp sau đây:

Không bảo đảm các điều kiện quy định;

Trên cầu hẹp có một làn xe;

Đường vòng, đầu dốc và các vị trí có tầm nhìn hạn chế;

Nơi đường giao nhau, đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt;

Khi điều kiện thời tiết hoặc đường không bảo đảm an toàn cho việc vượt;

Xe được quyền ưu tiên đang phát tín hiệu ưu tiên đi làm nhiệm vụ.

Như vậy có thể thấy Luật giao thông đường bộ đã quy định vượt xe là một trong những quyền của người tham gia giao thông.

Tuy nhiên, người điều khiển phương tiện chỉ được vượt xe khi đảm bảo đủ điều kiện tại Điều 14 Luật Giao thông đường bộ. Khi vượt phải vượt bên trái có đèn hoặc còi tín hiệu.

Trường hợp vượt xe không đúng quy định và cả trường hợp đủ điều kiện mà không cho vượt người điều khiển phương tiện đều có thể bị xử phạt hành chính.

Theo Nghị định 100/2019/NĐ-CP, hành vi vượt xe khi không đủ điều kiện có thể xử phạt ở nhiều tình huống. Ví dụ đối với người điều khiển xe ôtô và các loại xe tương tự xe ôtô có thể bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi vượt xe trong những trường hợp không được vượt, vượt xe tại đoạn đường có biển báo hiệu có nội dung cấm vượt (đối với loại phương tiện đang điều khiển); không có báo hiệu trước khi vượt; vượt bên phải xe khác trong trường hợp không được phép, trừ trường hợp tại đoạn đường có nhiều làn đường cho xe đi cùng chiều được phân biệt bằng vạch kẻ phân làn đường mà xe chạy trên làn đường bên phải chạy nhanh hơn xe đang chạy trên làn đường bên trái (Điểm d khoản 5 Điều 5).

Đối với người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy có thể bị phạt tiền từ 600.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi vượt xe trong những trường hợp không được vượt, vượt xe tại đoạn đường có biển báo hiệu có nội dung cấm vượt đối với loại phương tiện đang điều khiển (Điểm c, d khoản 4 Điều 6).

Không chỉ xử phạt lỗi vượt xe không đúng quy định, nếu người điều khiển phương tiện không nhường đường khi đủ điều kiện cũng có thể bị xử phạt.

Đối với người điều khiển ôtô và các loại xe tương tự ôtô phạt tiền từ 1 triệu đồng đến 2 triệu (điểm h khoản 4 Điều 5).

Điều khiển xe môtô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), mức phạt tiền từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng .

Tin mới nhất

Gợi ý dành cho bạn