MỚI NHẤT
CƠ QUAN CỦA TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Bác sĩ Hiền chụp ảnh cùng những em bé ra đời từ thụ tinh ống nghiệm. Ảnh: Bệnh viện cung cấp

Những cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn, chỉ còn 1 cách duy nhất để có con

Thùy Linh LDO | 15/05/2023 16:51

Trong nhiều năm qua, hàng chục nghìn gia đình vô sinh hiếm muộn đã được thăm khám và điều trị, rất nhiều trường hợp thành công.

Hạnh phúc tìm về sau nhiều năm điều trị vô sinh hiếm muộn

Gia đình chị Đinh Thị Niềm và anh Nguyễn Văn Yên, dân tộc Tày, ở huyện miền núi Bắc Quang – Hà Giang đã có 9 năm ròng rã tìm con. Sau khi đi thăm khám, bác sĩ chẩn đoán chị Niềm bị tắc 2 bên vòi trứng, không thể có con tự nhiên.

Suốt một thời gian dài, ai mách đâu có thuốc tốt, thầy thuốc giỏi, hai vợ chồng đều nghe theo nhưng không có kết quả. Áp lực về kinh tế cùng định kiến xã hội khiến vợ chồng chị đối mặt rất nhiều khó khăn. 

Gia cảnh khó khăn, may mắn hai vợ chồng chị được miễn phí chi phí thụ tinh trong ống nghiệm IVF. Thiên thần nhỏ chào đời vào tháng 6.2022 trong niềm hạnh phúc vỡ òa của gia đình. 

Chị Trần Thị Hương (sinh 1992, ở Nhữ Khê, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang) kết hôn cùng anh Đàm Văn Tuân (sinh năm 1988) năm 18 tuổi. Dù cả 2 đang ở độ tuổi rất trẻ, nhưng cố gắng mãi đôi vợ chồng không thể có con.

Sau lưng chị, người ta vẫn nói ra nói vào, có người ác khẩu còn nói: “Cây khô không trái, gái độc không con”. Chị Hương ấm ức vô cùng nhưng cũng chỉ biết nuốt nước mắt vào trong.

Khả năng sinh sản của chị Hương rất tốt nhưng anh Tuân lại mắc chứng tinh trùng ít và phần đa là dị dạng do hậu quả của quai bị.

Chị Hương chia sẻ: “Cách duy nhất để có con là chúng tôi làm IVF nhưng số tiền rất lớn. Nhưng chúng tôi làm ruộng, chỉ cấy lúa thì biết lấy tiền đâu ra để làm. Năm 2016, tôi quyết định đi làm công ty, lúc đó bắt đầu tích cóp được một ít”.

Ba năm đi làm công nhân ăn uống kham khổ, không dám mua sắm, đến năm 2019, chị Hương mới có 40 triệu trong tay. Vay mượn thêm, chị có 120 triệu để đi làm IVF. Hai vợ chồng xuống Hà Nội làm IVF, tạo được 9 phôi nhưng 2 lần chuyển đều thất bại. 

Tưởng chừng phải bỏ cuộc, may mắn thay chị Hương biết tới chương trình hỗ trợ sinh sản miễn phí, đăng ký và được duyệt hồ sơ.

Năm 2021, vợ chồng chị tiếp tục lấy được 12 phôi nhưng chuyển phôi 2 lần đều thất bại. Tháng 6.2021 chị Hương chuyển phôi thành công nhưng tới tuần thứ 8, không giữ được con.

Đến năm 2022, với sự động viên của gia đình, chị Hương và anh Tuân đi chuyển phôi lần cuối. Lần này, may mắn đã mỉm cười, hạnh phúc đã đến với gia đình anh chị. 

Chị Phạm Thị Thanh Hương và anh Hà Minh Tráng (Vĩnh Phúc) cũng phải mất 10 năm ròng rã tìm con với rất nhiều trăn trở. Anh bị hiện tượng vô tinh do tắc ống dẫn tinh, không có tinh trùng trong tinh dịch. 4 lần chuyển phôi không thành công và 1 lần lưu thai, anh chị tưởng chừng rơi vào tuyệt vọng.

Nhờ phương pháp PESA- chọc hút tinh trùng từ mào tinh hoàn, sau đó kết hợp cùng trứng của vợ và nuôi phôi lên ngày 5, vợ chồng anh đã vui mừng đón con yêu vào cuối năm 2022.

Vợ chồng chị Niềm anh Yên đã từng phải chịu điều tiếng về chuyện vô sinh hiếm muộn. Ảnh: Bệnh viện cung cấp

Tỉ lệ thành công của phương pháp IVF đạt khoảng 70%

Theo bác sĩ Lê Thị Thu Hiền- Giám đốc chuyên môn của bệnh viện Chuyên khoa Nam học và Hiếm muộn Hà Nội, trong nhiều năm qua, hàng chục nghìn gia đình hiếm muộn đến thăm khám và điều trị, rất nhiều trường hợp thành công. Những câu chuyện của họ là minh chứng cho những điều kỳ diệu của y học hỗ trợ sinh sản hiện đại.

Nhờ phác đồ điều trị và can thiệp y khoa thích hợp, tỉ lệ thành công trung bình của phương pháp IVF hiện nay đạt khoảng 70%.

Một trong những kỹ thuật hiện đại trong điều trị vô sinh hiếm muộn ở nam giới là phương pháp phẫu thuật vi phẫu tinh hoàn tìm tinh trùng - Micro TESE. Đây là kỹ thuật vi phẫu để tìm từng ống sinh tinh còn sót lại trong tinh hoàn, từ đó kiểm tra và tìm tinh trùng.

Tinh trùng thu được từ Micro TESE sẽ được dùng làm IVF và cho kết quả có con tương đương tinh trùng xuất tự nhiên. Kỹ thuật này thường được chỉ định cho các trường hợp nam giới không có tinh trùng do các nguyên nhân như: Teo tinh hoàn do quai bị, các bất thường về gene, mất đoạn gene AZF, bất thường về nhiễm sắc thể (hội chứng Klinefelter…), ẩn tinh hoàn, hội chứng sinh tinh nửa chừng...

Bác sĩ Hiền cho hay một kỹ thuật khác áp dụng thành công là nội soi thăm dò buồng tử cung - đưa một ống soi vào buồng tử cung để kiểm tra và đánh giá hình dạng kích thước, các bất thường bên trong buồng tử cung như: Polyp buồng tử cung; dính buồng tử cung; ứ dịch tử cung…

Kỹ thuật này được coi là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán kịp thời các bệnh lý buồng tử cung, đồng thời hỗ trợ điều trị xử lý các tổn thương một cách tốt nhất, giúp tăng tỷ lệ có thai tự nhiên cũng như tăng hiệu quả chuyển phôi thành công ở các cặp vợ chồng can thiệp hỗ trợ sinh sản.

Ngoài ra, các bác sĩ còn sử dụng hệ thống nuôi cấy và theo dõi phôi tự động tích hợp trí tuệ nhân tạo để theo dõi, đánh giá quá trình hình thành và phát triển của phôi.

Tin mới nhất

Gợi ý dành cho bạn